Chia sẻ kinh nghiệm

Trong suốt 50 năm qua, kinh tế thế giới đã có những bước chuyển rõ rệt từ nền tảng sản xuất thuần tuý sang hệ thống sản xuất dựa vào kỹ năng và tri thức. ở Mỹ, chỉ trong vòng  40  năm số người lao động thuần tuý đã  giảm gần một nửa (34% lực lượng lao động vào năm 1980 so với 57% vào năm 1940).

Quản lý tri thức là quá trình của việc quản lý một cách cẩn trọng tri thức để đáp ứng các nhu cầu hiện hữu, để nhận ra và khai thác những tài sản tri thức hiện có và có thể đạt được và để phát triển những cơ hội mới.

Ngày nay, tương lai và giá trị của một công ty phụ thuộc vào khả năng phát triển các sản phẩm/dịch vụ mới một cách nhanh chóng và kịp thời để có thể bắt nhịp với những nhu cầu luôn thay đổi. Thay vì một số cách tiếp cận truyền thống như TQM hay tái cơ cấu quá trình, các doanh nghiệp giờ đây coi QLTT như một yếu tố mới nhưng quan trọng nhất để giữ vững lợi thế cạnh tranh bằng thoả mãn  khách  hàng.

1. Đặt vấn đề

Trong chiến lược kinh doanh, tận dụng cơ hội và khắc phục thách thức của môi trường đối với sự phát triển của doanh nghiệp .Việc đánh giá  năng lực của doanh nghiệp nhằm nhận dạng điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh .Đó là 1 trong những thách thức quan trọng của hoạch định chiến lược  sản xuất kinh doanh.Các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường nói chung .Chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau phụ thuộc chủ yếu vào năng lực nội tại của doanh nghiệp.

Bối cảnh kinh tế ngặt nghèo ngày nay đang dấy lên một cuộc tranh luận thú vị: muốn đột phá trong kỷ nguyên Web 2.0, các doanh nghiệp nên ưu tiên lợi nhuận hay tăng số người sử dụng?

Để việc giáo dục, lập kế hoạch, thực thi và xúc tiến quản lý chất lượng có hiệu quả; xí nghiệp cần điều tra nhận thức, ý thức về quản lý chấy lượng của toàn thể nhân viên. Tuy nhiên, trước khi tiến hành điều tra xí nghiệp cần giải thích rõ ràng ý nghĩa và mục đích của việc làm để mọi người hiểu đúng về hợp tác, tránh hiện tượng có người sợ qua việc điều tra, công ty đánh giá về khả năng, ảnh hưởng đến lương của họ, và từ đó họ sẽ không nói thật. Cần nhấn mạnh công ty muốn biết ý thức nhận thức của họ để việc giáo dục triển khai có hiệu quả, để nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất, hiệu quả kinh doanh để công ty phát triển và bản thân họ có lợi về mặt tay nghề, nghiệp vụ, lương bổng…

Những người bạn của tôi – cũng là các chủ các doanh nghiệp – đã tâm sự với tôi về nỗi lo sợ cho năm 2009 sau khi có rất nhiều dự đoán không lạc quan. Tuy nhiên họ thể hiện thái độ rất rõ ràng rằng họ không hề có ý định nhượng bộ trước những mối lo ngại đó. 

V. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG MANG TÍNH TOÀN CẦU

Chắc hẳn, mọi nhà phát minh đều đã từng trải qua tình huống “cái khó ló cái khôn”. Năm 2004, nhà nghiên cứu hoá học của Proter&Gamble (P&G) - Nancy McCarthy - cũng từng sống trong những khoảnh khắc như vậy khi bà phụ trách dự án sáng chế thuốc tiêu hoá của hãng. Bà tin rằng dự án của mình sẽ tạo được tiếng vang lớn bởi trước đó, nhóm nghiên cứu do bà phụ trách đã thu được kết quả hết sức khả quan sau khi tiến hành nhiều cuộc kiểm tra và thử nghiệm y khoa. 

Có nhiều người chưa hiểu rõ cụm từ “tự động hóa”. Họ tưởng cứ đưa máy móc thiết bị tự động vào là có thể sản xuất một cách chính xác, và chất lượng  sản phẩm chế tạo ra sẽ tốt.

Có lần, qua sự giới thiệu của tòa đại sứ Pháp, công ty của Nhật Bản đã tiếp nhận 3 công chức của Bộ công nghiệp Pháp đến tham quan. Họ đã hướng dẫn những vị khách đó đi xem dây truyền lắp ráp radio, hệ thống stereo dùng trong ô tô, nơi có khá nhiều máy tự động. Nhân viên hướng dẫn giải thích nhờ đưa những máy móc này vào nên chỗ này giảm được 3 người, chỗ kia giảm được 5 người. Họ liền hỏi: “thế 3 người ấy đi đâu”. Do phía công ty đã không chuẩn bị những câu trả lời nên đã trả lời giống như phản xạ : “3 cô ấy đi lấy chồng rồi” ( ở Nhật, mãi đến mấy năm gần đây các cô gái hầu hết nghỉ đi làm trước khi đi lấy chồng). Họ đã rất ngạc nhiên và hỏi “ công ty này còn chăm lo cả việc đi lấy chồng cho các cô hay sao?”.