
Chắc hẳn, mọi nhà phát minh đều đã từng trải qua tình huống “cái khó ló cái khôn”. Năm 2004, nhà nghiên cứu hoá học của Proter&Gamble (P&G) - Nancy McCarthy - cũng từng sống trong những khoảnh khắc như vậy khi bà phụ trách dự án sáng chế thuốc tiêu hoá của hãng. Bà tin rằng dự án của mình sẽ tạo được tiếng vang lớn bởi trước đó, nhóm nghiên cứu do bà phụ trách đã thu được kết quả hết sức khả quan sau khi tiến hành nhiều cuộc kiểm tra và thử nghiệm y khoa.

Có nhiều người chưa hiểu rõ cụm từ “tự động hóa”. Họ tưởng cứ đưa máy móc thiết bị tự động vào là có thể sản xuất một cách chính xác, và chất lượng sản phẩm chế tạo ra sẽ tốt.

Có lần, qua sự giới thiệu của tòa đại sứ Pháp, công ty của Nhật Bản đã tiếp nhận 3 công chức của Bộ công nghiệp Pháp đến tham quan. Họ đã hướng dẫn những vị khách đó đi xem dây truyền lắp ráp radio, hệ thống stereo dùng trong ô tô, nơi có khá nhiều máy tự động. Nhân viên hướng dẫn giải thích nhờ đưa những máy móc này vào nên chỗ này giảm được 3 người, chỗ kia giảm được 5 người. Họ liền hỏi: “thế 3 người ấy đi đâu”. Do phía công ty đã không chuẩn bị những câu trả lời nên đã trả lời giống như phản xạ : “3 cô ấy đi lấy chồng rồi” ( ở Nhật, mãi đến mấy năm gần đây các cô gái hầu hết nghỉ đi làm trước khi đi lấy chồng). Họ đã rất ngạc nhiên và hỏi “ công ty này còn chăm lo cả việc đi lấy chồng cho các cô hay sao?”.

Hiện tượng nhiều người cao tuổi và trình độ giáo dục tăng cao là hai áp lực thúc đẩy xã hội đi theo hướng tự động hóa. Ở Nhật hiện nay, lớp người lao động trẻ ít đi nên việc tuyển người làm công việc dơ bẩn, công việc đơn giản đơn điệu là khó khăn. Vì vậy giống như chúng tôi đã nói ở trên, dây truyền sản xuất thiếu người làm việc nên không còn cách nào khác là tiến hành tự động hóa.
Hiện tượng nhiều người cao tuổi và trình độ giáo dục tăng cao là hai áp lực thúc đẩy xã hội đi theo hướng tự động hóa.

Nhìn ra thế giới mới thấy Nhật Bản là nước đáng kể. Năm 1985, GDP tính trên đầu người ở Nhật đã vượt mười ngàn USD. Lúc đó trên thế giới chỉ có mười nước vượt mười ngàn USD. Nhật đã vượt Anh, Pháp, chứng tỏ mức thu nhập đầu người tăng khá nhiều.

Khái niệm bảo dưỡng phòng ngừa ( preventive maintenance) được hình thành từ Mỹ vào năm 1951. Trước đó, các công ty chỉ thực hiện bảo dưỡng sửa chữa ( breakdown maintenance), tức là công việc bảo dưỡng chỉ được thực hiện sau khi có sự cố hỏng hóc xảy ra. Phương pháp bảo dưỡng phòng ngừa đã giúp các công ty giảm sự cố, hỏng hóc thiết bị một cách đáng kể, do đó nó được áp dụng và chấp nhận rộng rãi vào thời điểm này.

Hoạt động bảo dưỡng xuất hiện khi bắt đầu giai đoạn sản xuất công nghiệp. Cùng với xu hướng công nghiệp hóa, hoạt động bảo dưỡng đã trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau, từ bị động đến chủ động với các loại hình bảo dưỡng chủ yếu như sau: